• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Tin văn
 
VUA GIA LONG VÀ NGƯỜI PHÁP: XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI

VUA GIA LONG VÀ NGƯỜI PHÁP: XÂY DỰNG QUÂN ĐỘI



Thụy Khuê

 
Thuyền chiến nhà Nguyễn khắc trên Cửu đỉnh ẢNH: TƯ LIỆU nhà ngoại giao, nhà thám hiểm người Anh John Barrow tuy chưa gặp nhưng tả Nguyễn Vương rất kỹ trong cuốn A Voyage to Cochinchina (Chuyến đi Nam Hà, xuất bản tại London năm 1806).

 

 

Ông đã dựa vào hồi ký thuyền trưởng người Pháp Barisy từng tham gia quân đội Nguyễn Ánh chống Tây Sơn, và hai người Anh đã sống ở Sài Gòn.

Barrow viết: “Từ năm 1790, năm Gia Long về lại Nam kỳ, tới 1800, chỉ có hai năm không đánh nhau là 1797 và 1798, cũng chính là hai năm quan trọng nhất dưới triều đại của ông. Dưới sự trợ lực của giám mục Adran, mà ông tham vấn như một người thông bác, ông đã làm hết sức để đất nước tiến triển: lập xưởng làm thuốc súng ở Fen-tan (Hội An?) (thuộc đất Chàm trên bản đồ), mở mang đường sá, trồng cây, trồng mía, trồng trầu cau đã bị chiến tranh tàn phá, khuyến khích việc nuôi tằm, dệt lụa, lập xưởng điều chế nhựa thông, hắc ín; chế tạo hàng nghìn súng hỏa mai, khai mỏ sắt và xây lò nung. Lập quân đội chính quy và lập trường võ bị, với các huấn luyện viên người Âu luyện tập cho các sĩ quan cách bắn và phóng pháo. Adran còn dịch sang chữ Hán một bản nghiên cứu chiến lược để dùng trong quân đội.

Trong hai năm này, nhà vua đã cho đóng ít nhất 300 chiến thuyền có đại bác hoặc ghe chèo, 5 thuyền 3 cột buồm, 1 chiến hạm theo lối Tây phương. Ông sáng chế ra một chiến thuật mới cho thủy binh và dạy sĩ quan hải quân biết dùng dấu hiệu. Một trong những người Anh cho biết đã nhìn thấy ở Sài Gòn, năm 1800, một hạm đội 1.200 thuyền buồm do chính ông điều khiển, nhổ neo và tiến trên sông với một trật tự thật đẹp, chia làm ba đoàn, thẳng hàng tiếp chiến, mở, đóng hàng ngũ và thi hành tất cả những thao tác theo đúng hiệu lệnh.

Vị vua này, hết sức chuyên tâm về mỹ thuật và công nghệ, ông sánh ngang hàng với Đại đế Pierre của nước Nga, nhưng không tàn bạo kích động như thế, bởi cái gương đặc thù của ông, bởi nghị lực của dân tộc ông, và giống như Alfred (vua nước Anh) bất tử của chúng ta, ông không ngần ngại làm bất cứ việc gì để hồi sinh đất nước.

Để có một ý niệm về hoạt động và thiên tài của ông, chỉ cần xem những tình huống mà ông đã trải qua: mới đầu chỉ có một chiến hạm, mà trong vòng không đến 10 năm, đã có một hạm đội 1.200 chiến thuyền, trong đó có 3 tàu kiến trúc Tây phương, khoảng 20 thuyền buồm lớn theo kiểu Trung Quốc hoàn toàn trang bị võ khí, chỗ còn lại là tàu chuyên chở, trang bị đại bác.

Gia Long được miêu tả như một người lính hoàn hảo, trong nghĩa mạnh mẽ nhất. Người ta kể ông thích là tướng quân hơn đế vương. Người ta tả ông can đảm, không thô bạo, lắm mưu. Những nhận thức của ông thường đúng; khó khăn không chán nản, cản trở không lùi bước; thận trọng trong mỗi quyết định, mau lẹ và rắn rỏi khi thực hành điều đã định, luôn ở vị trí chủ chốt trong trận, đi tiên phong trước ba quân. Tính tình vui vẻ dễ chịu, nhã nhặn, lắng nghe quan quân dưới quyền, tránh ban ân huệ riêng tư; có trí nhớ đặc biệt, ông nhớ hầu hết tên của lính trong quân: ông thích thú nói chuyện với họ, nhắc họ hành động và chiến công của họ, hỏi thăm vợ con họ, hỏi đã cho con nhỏ đi học đều chưa, hỏi chúng muốn làm gì khi lớn, ông biết hết những chi tiết nhỏ nhất về gia đình họ.

Đối với người ngoại quốc, ông rất tử tế và ân cần. Ông quý mến những sĩ quan Pháp giúp ông: đối xử với họ lịch sự, thân tình và rất tốt. Không bao giờ ông đi săn hay dự cuộc vui nào mà không mời một người trong bọn họ tham dự. Ông tuyên bố công khai lòng kính trọng của ông đối với các tôn chỉ của đạo Thiên Chúa, ông dung đạo chúa như các đạo khác trong nước: ông cực kỳ tôn kính đạo nghĩa gia đình như Khổng Tử dạy trong kinh sách.

Người ta đồn, điều này không được phép nói ra, rằng để kết nối lý thuyết kiến trúc tàu với thực hành, ông đã mua một chiến hạm Bồ, rồi tháo ra từng mảnh, từng tấm ván một, bắt chước đúng kích thước đó mà làm lại, cho đến khi ông thay thế tất cả các bộ phận bằng những mảnh mới làm, để hoàn thành một chiếc tàu mới.

Nghị lực trí thức của ông ngang bằng với khí phách và hoạt động thể xác. Chính ông chủ động sự bùng lên mọi mặt của đất nước, chính ông quản đốc các hải cảng và các công binh xưởng, chính ông là giám đốc xây dựng những xưởng đóng tàu, chính ông chỉ huy các kỹ sư trong tất cả mọi công việc. Không có gì thực hiện không có gì chấp hành mà không hỏi ý kiến và nhận lệnh của ông. Không ai chế tạo một bộ phận nào mà không hỏi ông; không ai lắp một khẩu đại bác nào mà không có lệnh của ông. Không những ông trông coi từng chi tiết nhỏ, mà còn phải làm trước mặt ông.

Để điều khiển tất cả công việc của mình một cách vững vàng, ông đặt ra một thời biểu sống cố định và kỷ luật. Sáng dậy 6 giờ, tắm nước lạnh; 7 giờ, các quan vào chầu, mở tất cả công văn đến từ hôm qua, ông truyền lệnh cho các thư ký ghi chép, sau đó ông ra xưởng tàu thủy (Xưởng chu sư) duyệt lại tất cả những gì đã làm xong lúc ông vắng mặt, rồi ông tự chèo thuyền đi khắp bến cảng, kiểm soát các chiến hạm, đặc biệt chú ý đến súng đại bác; ông đi thăm lò đúc súng, đúc đủ loại đại bác ngay tại công binh xưởng (Cục Chế tạo).

Đến 12 hay 1 giờ trưa, ông ăn cơm ở xưởng đóng tàu (Xưởng chu sư). Cơm với cá muối. Hai giờ ông về cung ngủ tới 5 giờ; sau đó ông tiếp các quan võ thủy bộ, các quan tòa, hay quan cai trị, ông đồng ý, hoặc bãi bỏ hoặc sửa chữa những kiến nghị của mọi người”.

 

 


(Trích từ Vua Gia Long và người Pháp, NXB Hồng Đức và Saigon Books ấn hành tháng 1.2017)

 

Thụy Khê - TN0


Tin tức khác

· HỘI NGHỊ TỔNG KẾT HỘI NHÀ VĂN NĂM 2025: TINH GỌN BỘ MÁY, THẮT CHẶT KỶ CƯƠNG, KHÁT VỌNG ĐỔI MỚI
· CUỘC HÔN NHÂN VỪA LÃNG MẠN VỪA LẮM CHÔNG GAI CỦA HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG VÀ LÂM THỊ MỸ DẠ
· 50 TÁC PHẨM VĂN HỌC NGHỆ THUẬT ĐƯỢC VINH DANH
· 23 NĂM 'TÌM THẤY' NHÀ THƠ THÂM TÂM
· HAI NẠN NHÂN SỐNG SÓT TRONG VỤ THẢM SÁT Ở QUẢNG NAM NHẬN GIẢI THƯỞNG RHEE YEUNGHUITHỨ 13 Ở HÀN QUỐC
· NHÀ VĂN ĐỖ KIM CUÔNG - 'TRANG TRAI HOA HỒNG' HAY BI KỊCH CHIẾN TRANH
· ĐẢNG ỦY XÃ TAM MỸ TỔ CHỨC VÒNG CHUNG KHẢO HỘI THI KỂ CHUYỆN TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
· NHÂN CHỨNG VỤ KHÔNG TẶC 1978: 'TÔI ĐÃ BA LẦN CHỜ CHẾT"
· THƯ VIỆN KHU LƯU NIỆM BÍCH KHÊ: ĐIỂM SÁNG VĂN HÓA VỚI GẦN 4000 ĐẦU SÁCH, LAN TỎA TRI THỨC ĐẾN CỘNG ĐỒNG
· CUỘC ĐẤU TRÍ VÁCH MẶT TÊN GIÁN ĐIỆP ĐỘI LỐT NHÀ BÁO
· THƯ VIỆN NHỎ TRONG LÒNG NHÀ LƯU NIỆM BÍCH KHÊ
· 12 THÀNH PHẦN CHÍNH CỦA DI SẢN VĂN HÓA THẾ GIỚI THỨ 9 CỦA VIỆT NAM
· ĐỘI TƯỢNG BINH CÓ SỨC MẠNH KHỦNG KHIẾP NHẤT SỬ VIỆT KHIẾN PHƯƠNG BẮC KHIẾP VÍA
· 'THẦN ĐỒNG NGOẠI NGỮ' DANH TIẾNG NHẤT NHÌ LỊCH SỬ PHONG KIẾN
· CÓ PHẢI DO TÂM LINH MÀ MIẾU TRUNG LIỆT Ở GÒ ĐỐNG ĐA BỊ PHÁ DỠ?
· BÍ ẨN VỎ LÚA HUYỀN THOẠI THỜI THƯỢNG CỔ Ở AN GIANG
· NGUYỄN PHAN QUẾ MAI GIÀNH HAI GIẢI THƯỞNG VĂN HỌC PHÁP
· LỊCH SỬ PHẬT GIÁO - HÀNH TRÌNH TRUYỀN THỪA VÀ CHUYỂN GIAO QUA 25 THẾ KỶ
· 'CON HOANG' - TÁC PHẨM ĐƯA FAULKNER ĐẾN GIẢI NOBEL CÓ GÌ ĐẶC BIỆT?
· KIẾN TRÚC SƯ TRƯỞNG CỦA PHONG TRÀO DUY TÂN VÀ ĐÔNG DU LÀ AI?

Tin tức mới
♦ THÁI ÚY TÔ HIẾN THÀNH - NHỮNG BÀI HỌC KHÔNG BAO GIỜ CŨ  (24/12/2025)
♦ THƠ BÙI THÚY - VỜ NGÂY THƠ TRƯỚC THĂM THẲM TRĂNG VÀNG (24/12/2025)
♦ 'KIẾN TRÚC SƯ' ĐẦU TIÊN CỦA ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH LÀ AI? (24/12/2025)
♦ LÂM THỊ MỸ DẠ VÀ NHỮNG BÀI THƠ ĐI CÙNG NĂM THÁNG (24/12/2025)
♦ TRUYỆN NGẮN HỒ LOAN - THỦ PHÁP TRỘN GIỌNG GIỮA NGƯỜI KỂ VÀ NHÂN VẬT - Tiểu luận MAI BÁ ẤN ()
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1835718
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 73028
Truc tuyen Trực tuyến: 2

...

...

Designed by VietNetNam