Tôi phải xấu hổ mà thú thật rằng, dù cùng là đồng hương Bùi Chu, cùng đồng đạo Công Giáo và cũng theo đuổi môn triết học với ông mà chúng tôi không biết ông là ai vì trước những năm 2000, ở miền Bắc chẳng sách vở nào nhắc đến tên ông. Gần đây, chúng tôi mới tìm hiểu về ông và thật ngưỡng mộ ông. Đó là một triết gia lớn của dân tộc Việt Nam, tràn đầy tinh thần dân tộc, tràn đầy lòng yêu nước. Ông là Linh mục Lương Kim Định.
Lời Tòa Soạn: Chưa bao giờ thông tin về giới nghệ sỹ, nhất là nghệ sỹ biểu diễn trên truyền thông và báo chí lại nhiều, đa dạng, thậm chí phức tạp như hiện nay. Trong nhiều trường hợp có thể nói là đã có sự nhiễu loạn thông tin về giới nghệ sỹ. Đây không chỉ là một hiện tượng mà là một vấn đề xã hội không hề đơn giản. Có nhiều góc nhìn và đánh giá đa dạng về hiện tượng/vấn đề này. Văn Hóa Nghệ An giới thiệu một cách nhìn về thực trạng này của nhà nghên cứu văn học Bùi Việt Thắng đến từ Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn Hà Nội.
Vậy thì về chánh tả viết dông (d) hay giông (gi), cách nào đúng ? Để khỏi phải lướng vướng mỗi khi đụng tới con chữ,tôi tìm cách ‘thanh toán’luôn cho dứt một lần.
Với các nước phương Tây, mối quan hệ đối ngoại của các chính quyền Lê-Nguyễn đã bắt đầu từ những thế kỷ XVII- XVIII. Những thập niên cuối thế kỷ XVIII, thỏa ước Versailles ký kết giữa Giám mục Bá Đa Lộc, với tư cách đại diện chúa Nguyễn Ánh, và đại diện vua Louis XVI, đã không thực hiện được do sự ngăn trở của viên chức Pháp được giao trách nhiệm thi hành. Vào thập niên 1810, sau khi vua Gia Long đã yên vị trên một đất nước thống nhất và tương đối bình ổn, các tàu buôn Pháp hướng về Viễn Đông để tìm thị trường tiêu thụ mới.
Khi nói đến văn chầu trong diễn xướng chầu văn chúng tôi đặt nó trong tổng thể ca nhạc truyền thống mang hai yếu tố cơ bản là: diễn xướng có tính nghi lễ (trong nội dung và phương thức) và việc sử dụng thể thơ lục bát và song thất lục bát tiếng Việt trong lời văn của nó.
Điều đáng tiếc là trong lúc “Gia Định Tam Gia” được chứng kiến những thắng lợi cuối cùng của cuộc chiến khốc liệt giữa nhà nhà Nguyễn chống lại nhà Tây Sơn thì trong “Gia Định Tam Hùng”, không ai được tận hưởng niềm vui đó và cái chết của mỗi người là một bi kịch khác nhau.
Ðây thực ra là một vấn đề không hề đơn giản và dễ dàng như chúng ta thường nghĩ. Có dễ dàng chăng cho chính riêng tôi là một định nghĩa về Kitô giáo, hoặc đơn giản hơn, là một định nghĩa về đạo Công Giáo. Công việc này có lẽ với tôi không khó cho bằng một định nghĩa chung về tôn giáo. Lý do thật đơn giản là vì bản thân tôi được sinh ra và lớn lên trong một gia đình Công Giáo. Sự khó khăn trong việc đi tìm một định nghĩa chung cho hai chữ Tôn Giáo này có lẽ cũng đúng cho trường hợp của một tín hữu Phật Giáo hoặc Cao Ðài, Hòa Hảo, bởi lẽ cái nhìn của họ về tôn giáo cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi đức tin họ đã được tiếp nhận học hỏi.
Bài này chú trọng đến cách dùng vào thời các giáo sĩ qua An Nam, chứ không phê bình cách phân loại này có chính xác hay không cho loại hình ngôn ngữ đặc biệt của tiếng Việt.
Trong bài viết này, qua cách tiếp cận nội tại tự sự của chính Phan Bội Châu trong các tác phẩm tự truyện của ông như “Ngục trung thư”, “Lời tự phán”, “Phan Bội Châu niên biểu”... những tác phẩm được ông coi như di ngôn, đúc kết kinh nghiệm cả đời bôn ba hoạt động cách mạng của mình, ta có thể làm sáng tỏ thêm một nền tảng quan trọng cho sự hình thành chủ nghĩa yêu nước của Phan Bội Châu chính là nhân cách kẻ sĩ của ông.
Cụ Võ Trường Toản, danh sĩ đất Gia Định, đã không ra làm quan với nhà Tây Sơn trong thời gian họ chiếm đóng vùng đất này. Cụ mở trường dạy học, thu nhận hàng trăm học trò, trong đó có ba người về sau rất hiển đạt dưới triều Gia Long, được người đời sau phong là “Gia Định tam gia”. Họ gồm có Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh và Lê Quang Định. Họ không chỉ văn hay chữ tốt, mà từng là những chiến sĩ đã góp phần không nhỏ trong việc gầy dựng một vương triều Nguyễn tồn tại gần 150 năm.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.