• Trang chủ
  • Bích Khê
  • Tác phẩm
  • Thi hữu
  • Diễn đàn lý luận
  • Thơ phổ nhạc
  • Tư liệu
  • Tin văn
  • Bạn đọc
  • Liên kết website
  • Thi tập
  • Tự truyện
MENU
  • Thi tập
  • Tự truyện
Hỗ trợ - Tư vấn
Thông tin cần biết
TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương 
Tôi mang lên lầu lên cung Thương 
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng 
Tình tang tôi nghe như tình lang 

Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi 
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi 
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi 
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi 

Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu 
Sao tôi không màng kêu: em yêu 
Trăng nay không nàng như trăng thiu 
Đêm nay không nàng như đêm hiu 

Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân 
Buồn sang cây tùng thăm đông quân 
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng 
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông. 
 
Tư liệu
 
SO SÁNH TU TỪ VỚI SỰ THỂ HIỆN TƯ DUY TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ BÍCH KHÊ

SO SÁNH TU TỪ VỚI SỰ THỂ HIỆN TƯ DUY TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ BÍCH KHÊ



TRỊNH BÍCH THÙY

1. So sánh tu từ trong thơ Bích Khê

          Có thể xem Bích Khê, tác giả của “những câu thơ hay vào bực nhất trong thơ Việt Nam” [1] như sự xưng tụng của Hoài Thanh trong Thi nhân Việt Nam, là một trong những đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Thơ Bích Khê đạt được những thành tựu rực rỡ trên nhiều phương diện, trong đó có ngôn ngữ nghệ thuật: “Bích Khê sử dụng nhiều kỹ thuật về ngôn từ. Đấy là một điều mới, sự thành công của ông. Thơ Bích Khê muốn cho người đọc thấy được sự cách tân kỹ thuật ngôn từ trở thành nghệ thuật mang lại cái mới mẻ” [2]. Chính bởi điều này, Bích Khê “xứng đáng với danh hiệu: “Nhà thơ đỉnh cao của nghệ thuật ngôn từ”” [3].

          Trong các “những thao tác ngoạn mục của ngôn từ” [4] của thơ Bích Khê, so sánh tu từ không những có mặt thường xuyên với tần số lớn mà còn mang lại nhiều giá trị đặc sắc bởi cách sử dụng linh hoạt, tài tình và cũng rất đỗi mới lạ, khác biệt của Bích Khê. Nghệ thuật sử dụng so sánh tu từ là một trong những thành công nổi bật của thơ Bích Khê trong trên phương diện ngôn ngữ nghệ thuật; đồng thời là phương diện thể hiện rõ nét tư duy tượng trưng trong thơ Bích Khê.

          Khảo sát 77 bài thơ trong hai tập Tinh huyết và Tinh hoa [5], chúng tôi thu được 132 so sánh được sử dụng. Không chỉ xuất hiện với mật độ dày (trung bình cứ 3 bài thơ thì có đến 5 lượt so sánh tu từ), biện pháp tu từ này còn được Bích Khê sử dụng một cách linh động, đầy biến hoá. Các đặc điểm về cấu trúc tổng thể cũng như từng yếu tố trong cấu trúc so sánh tu từ trong hai tập thơ nói lên điều này.

          Về tổng thể, so sánh tu từ trong thơ Bích Khê có đầy đủ bốn yếu tố của một cấu trúc so sánh tu từ thường gặp: (1) yếu tố cần so sánh – (2) đặc điểm của yếu tố cần so sánh – (3) phương tiện/ cách thức thể hiện quan hệ so sánh – (4) yếu tố được so sánh. Bên cạnh đó, thơ ông thường xuyên xuất hiện những so sánh tu từ với cấu trúc không đủ: vắng yếu tố (1); vắng yếu tố (2); vắng yếu tố (3); vắng (1) và (2); vắng yếu tố (2) và (3). Ngoài ra, còn có những so sánh đảo cấu trúc: Xa xa dường thoảng tiếng châu reo:/ Dặm cỏ ven đồi huê lác đác,/ Ngựa ai rung nhạc tiếng trong veo.

          Trong nội bộ từng yếu tố, cách sử dụng của Bích Khê cũng hết sức chủ động, linh hoạt. Yếu tố (1) trong thơ Bích Khê rất đa dạng. Có khi, đó là một sự vật cụ thể, trong đó, nổi bật nhất là hình ảnh cơ thể con người: Miệng như đàn nói thành ra điệu nhạc; Da trăng trắng tợ hàu; Thân em là núi Thiên Thai, Cổ xinh trông tựa A Phòng, Gót em như thể nửa lừng nhạn sa, Mắt xanh như thể Động Đình hồ thu… Có khi, đó là những trạng thái cảm xúc, những phương diện tinh thần, như: Lòng nao nức như hương trầm mới dậy; Khoái lạc ửng hồng như quả gấc; Buồn thôi như rượu thấm dồn... Lại có cái được so sánh là những ý niệm trừu tượng, mơ hồ như: Cho chân lý ngời ra như sắc kiếm; Đây lý tưởng im lìm như xác chết; Mộng rớt đêm nay như chất ngọc; Hồn tôi như đỉnh hương … Đặc biệt, thơ Bích Khê còn có những yếu tố được so sánh là những kết hợp bất ngờ, thú vị, chẳng hạn: Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc; Đây hồn ngọc thạch xanh xao như tờ; Mây, tuyết, thời gian bay tợ nhạc…

Yếu tố (2) trong thơ Bích Khê cũng khá phong phú, trong đó, tập trung nhiều nhất vào những tính chất gắn liền với âm thanh, hương vị, sắc màu: Đây bát ngát và thơm như sữa lúa; Cười thơm như ngọc dội hương vang; Mộng nàng có trắng tợ hoa lê; Khoái lạc ửng hồng như quả gấc; Ngọc thơm tho như là hương trinh nữ; Da trăng trắng tợ hàu…

          Về yếu tố (3), bên cạnh từ “như” được dùng nhiều nhất, tác giả còn sử dụng linh hoạt các từ ngữ/ phương tiện/ cách thức so sánh khác: “như là” (Ngọc thơm tho như là hương trinh nữ); “như thể” (Mắt xanh như thể Động Đình hồ thu); “sao như” (Múi trắng sao như ngọc); gần như (Tơ tơ gần như nguyệt/ Biếc biếc gần như thu); “tợ” (Danh nghĩa cao sang tợ mặt trời); “trông tựa” (Cổ xinh trông tựa A Phòng); “hơn” (Trời tôi rộng, mịn màng hơn suối tóc); “dường” (Dáng cô uốn éo dường tơ liễu); “là” (Hai ta là mảnh vỡ/ Của ngai báu thiên đường)… Đặc biệt, không ít so sánh vắng mặt yếu tố từ so sánh và thay bằng một ký hiệu nhận diện khác: Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng. Thậm chí ở một số trường hợp, nhà thơ bỏ cả dấu hiệu nhận diện: Tóc mây một mái êm dòng Tiêu Tương, Lòng ta bến đò xưa. Ở trường hợp khác, nhà thơ thay thế bằng một từ cổ không mang hàm nghĩa so sánh, cụ thể là trợ từ “hề” trong thơ cổ phong: Mái tóc hề bóng rừng/ Lông mi hề nhung láy/ Tình hoài hề gió xuân/ Thi tài hề mạch chảy.

          Về yếu tố (4) hình ảnh so sánh là yếu tố không thể vắng mặt trong mọi cấu trúc so sánh tu từ, cũng là nơi tập trung thể hiện khả năng liên tưởng, tạo hình, gợi cảm của một phép so sánh, đồng thời cho thấy tài năng, sự tinh tế trong nghệ thuật tạo lập so sánh của tác giả. Trong thơ, Bích Khê có những hình ảnh so sánh vô cùng bất ngờ, ấn tượng. Trong đó, châu, ngọc, ngà, lưu ly, kim cương, trầm, vàng, gấm, thanh gươm, lưỡi kiếm, hoa, nhạc, tinh, xạ, rượu, thịt, hương, sương, nắng, trăng, xác chết, ma, ma… là những hình ảnh nổi bật nhất.

          Có thể khẳng định, xuất hiện với tần số cao, cấu trúc đa dạng, hình ảnh đa dạng, so sánh tu từ là một thủ pháp nghệ thuật đầy chủ đích của Bích Khê. Chính ý thức chủ động sử dụng biện pháp so sánh tu từ một cách tài tình này đã mang đến cho thơ Bích Khê những giá trị thẩm mỹ độc đáo, mới lạ.

2. Vai trò thể hiện tư duy tượng trưng của so sánh tu từ trong thơ Bích Khê

          Trong tác phẩm văn học, “so sánh là phương thức tạo hình, phương thức gợi cảm” [6]. Bên cạnh đó, so sánh tu từ còn được các nhà văn sử dụng để gia tăng hiệu ứng âm thanh, mở rộng liên tưởng, gia tăng tính đa nghĩa cho lời thơ, văn. Bích Khê với những so sánh mới lạ, ấn tượng là một minh chứng cho vai trò quan trọng của so sánh tu từ trong ngôn ngữ văn chương.

          Trước hết, so sánh tu từ được sử dụng nhằm gây ấn tượng thị giác, gia tăng tính tạo hình cho lời thơ. Thơ Bích Khê giàu tính hình tượng với những hình ảnh liên tưởng đầy bất ngờ, mới lạ, khác thường mà phần lớn trong số đó đến từ các so sánh tu từ. Chính sự mới mẻ, độc đáo của yếu tố (4) – cái làm chuẩn so sánh trong cấu trúc của các so sánh mà Bích Khê sáng tạo ra, giữ vai trò quan trọng trong việc kiến tạo nên giá trị này. Khảo sát về so sánh tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử, Nguyễn Thị Thanh Đức đã đối chiếu với so sánh tu từ trong thơ Bích Khê, Xuân Diệu, Nguyễn Bính để chỉ ra “Bích Khê ưa so sánh với Đồ vật” [7] và “Bích Khê thì rất hay sử dụng các hình ảnh châu, châu báu, ngọc, đàn làm đối tượng so sánh” [8]. Quả vậy, đọc thơ Bích Khê, ta dễ dàng nhận ra thi nhân chủ động sử dụng rất nhiều hình ảnh so sánh liên quan đến âm thanh, hương thơm, màu sắc. Có thể dẫn ra một số hình ảnh tiêu biểu như: Châu: Tôi chết rồi! Tiếng nói như châu; Ngọc: Mộng rớt đêm nay như chất ngọc; Ngà: Chúng tôi lạc giữa mộng như ngà; Lưu ly: Lầu ai ánh gì như lưu ly; Kim cương: Ôi! Cặp mắt của người trong tợ ngọc/ Sáng như gươm và chấp choá kim cương; Vàng: Miệng cứng hào quang chảy tợ vàng; Hoa: Và hồn hé nhạc thắm như hoa; Gấm: Họ đẹp như xuân, sắc như gấm; Thanh gươm, lưỡi kiếm: Và sắc lẻm như thanh gươm vấy máu; Cả sắc đẹp ngời ra như lưỡi kiếm; Trầm, đỉnh hương: Lòng nao nức như hương trầm mới dậy; Hồn tôi như đỉnh hương; Trăng, nắng, hương: Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc/ Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương; Nàng hé môi ra. Bay điệu nhạc/ Mát như xuân và ngọt tợ hương; Tuyết: Sữa trắng như tuyết pha; Tinh, xạ: Với đôi dòng suối sữa trắng như tinh/…/ Ngát thanh khí vì thơm tho như xạ; Rượu: Buồn thôi như rượu thấm dồn; Sữa: Đây bát ngát và thơm như sữa lúa; Thịt: Múi mát tợ thịt thơm; Đàn: Đây tân hôn ngào ngọt vị như đàn; Miệng như đàn nói ra thành điệu nhạc; Nhạc: Người như nhạc trong xuân bằng nhạc;

          “Bích Khê luôn mở rộng các giác quan tinh tế để cảm nhận thế giới, và chỗ nào các giác quan dừng lại, thì ông dùng đến trực giác và trí tưởng tượng mạnh mẽ để khám phá những bí ẩn hàm chứa bên trong sự vật” [9]. Bởi đó, “thế giới trong thơ Bích Khê đầy hương thơm, màu sắc và âm nhạc” [10]. Các yếu tố chuẩn so sánh được nhà thơ sử dụng tập trung vào những trường nghĩa nhất định như trên không chỉ gia tăng hình ảnh cho lời thơ mà còn góp phần kiến tạo nên một thế giới thơ lung linh, kỳ diệu mà cũng rất đỗi ngỡ ngàng, dị thường của địa hạt của chủ nghĩa tượng trưng mà Bích Khê khi giã từ lối thơ cũ đã bỏ qua cả chủ nghĩa lãng mạn để tìm đến, khám phá và thể hiện.

          “Là một kiện tướng của chủ nghĩa tượng trưng, Bích Khê đã thực hiện điều mà P. Valery từng nói “Trước hết làm âm nhạc”” [11]. Nhạc tính dồi dào là một trong những chỉ dấu quan trọng của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Bích Khê. Đây cũng một trong những thành công lớn nhất của Bích Khê trong thơ. Không ai có thể phủ nhận tài năng ngôn từ trong việc tạo hiệu quả âm thanh của Bích Khê. Ông rất thuần thục trong các thủ pháp sử dụng thanh điệu, dấu câu, biến hoá tiết tấu của dòng thơ, vận dụng các kỹ thuật của âm nhạc vào thơ… để mang đến những dòng thơ, đoạn thơ, thậm chí bài thơ rất gần với nhạc. Trong nhiều phép so sánh tu từ, Bích Khê cũng thường biến tấu các yếu tố trong cấu trúc so sánh để gia tăng hiệu quả nhạc tính. Có những so sánh ông dùng toàn thanh bằng: Rùng mình ta nhìn ta/ Huyền hồ đà như ma. Có những so sánh ông liên tục dùng từ láy, sử dụng cấu trúc lặp: Tơ tơ gần như nguyệt/ Biếc biếc gần như thu; bài Băng tuyết lặp 03 lần so sánh Thân em là núi Thiên Thai; bài Ngũ Hành Sơn, tiền lặp 02 lần cấu trúc Hai ta là mảnh vỡ/…/ Hai ta là chất bổ. Ở nhiều so sánh, ông dùng thủ pháp tăng cấp nhiều vế so sánh cho một đối tượng: Họ đẹp như xuân, sắc như gấm; Ôi! Cặp mắt của người trong tợ ngọc/ Sáng như gươm và chấp choá kim cương; hoặc dùng nhiều so sánh trong một dòng thơ: Mát như xuân mà ngọt tợ hương. Nhiều phép so sánh, ông lược bỏ yếu tố (1): Ngát thinh khí vì thơm tho như xạ/ Và rùng rợn như một điềm quái lạ; lược bỏ cả hai yếu tố (1) và (2): Phép làm sao! Như chân lý ra đời/ Như nơi đây linh diệu của muôn trời; lược bỏ từ so sánh hoặc thay bằng một yếu tố khác có ý nghĩa tạo hiệu ứng nhịp điệu, tiết tấu cho dòng thơ: Mái tóc hề bóng rừng/…/ Tình hoài hề gió xuân, Thân bệnh: ngô vàng mưa lá rụng/ Bút thần: sông lạnh ánh sao rơi, Những đôi mắt, kho tàng muôn châu báu/…/ Những vú nõn: đồi cong thon, nho nhỏ… Chính nhờ sự linh hoạt, biến ảo của các yếu tố trong cấu trúc so sánh, biện pháp so sánh tu từ đã mang lại những hiệu ứng âm thanh độc đáo, góp phần nhất định vào việc kiến tạo tính nhạc cho lời thơ của Bích Khê.

          Một nét khác lạ của so sánh tu từ trong thơ Bích Khê như chính Trịnh Sâm đã chỉ ra là “cả hai vế, so sánh và được so sánh đôi lúc hầu như không xây dựng trên nét tương đồng nào” [11]. Như đã biết, trong cấu trúc của một so sánh tu từ, hai yếu tố (1) và (4) phải khác loại nhưng bắt buộc dựa trên một nét tương đồng nào đó. So sánh tu từ trong sáng tác của các nhà Thơ mới khác hầu hết đều tuân thủ quy tắc này. Tuy nhiên, Bích Khê với ý thức cách tân hình thức thơ mạnh mẽ đã không ít lần vượt qua quy tắc trên. Trong thơ ông, những so sánh tu từ với vế so sánh và vế được so sánh không tương đồng xuất hiện khá nhiều, chẳng hạn: Hồn người mê như sắc đẹp trên giường; Cười thơm như ngọc dội hương vang; Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc; Ngoài ly Lý Bạch trời như mộng.   Đây là một chủ ý nghệ thuật của Bích Khê. Chính “cách so sánh vượt ra khuôn phép ngữ văn truyền thống” [12] này không chỉ mang đến những liên tưởng bất ngờ, mới lạ, đầy sức ám gợi mà còn thể hiện rõ nét tư duy tượng trưng của thơ Bích Khê. Ở đó, trong sự tương giao cực độ, ranh giới giữa các đối tượng, sự vật bị xoá mờ, trở nên nhập nhằn và giữa cái cần so sánh với cái được so sánh gần như chẳng còn một mối liên hệ nào nữa...

          3. Kết luận

          Có thể thấy, so sánh tu từ là một thủ pháp đắc lực trong ý đồ nghệ thuật cũng như sự thể hiện tư duy thơ Bích Khê. Góp phần kiến tạo nên một thế giới diệu kỳ của hương thơm, âm thanh và sắc màu, gia tăng nhạc tính cho lời thơ và đẩy những mối tương giao, tương hợp trong thơ lên đỉnh điểm, so sánh tu từ là một trong những phương diện thể hiện rõ nhất dấu ấn của chủ nghĩa tượng trưng trong thơ Bích Khê.

          Trong “những nhà thơ tiên phong cách tân trong phong trào Thơ mới 1932-1945, đặc biệt là những cách tân sau khi trường phái lãng mạn đạt đỉnh cao, đều là những người có gốc gác ở những tỉnh lẻ miền Trung” [13], Bích Khê là tác giả có ý thức cách tân thơ mạnh mẽ. “Ý thức cách tân nghệ thuật trong cuộc đời sáng tác của Bích Khê rất rõ, rất có chủ ý” [14]. Ông đã đi đến tận cùng của chủ nghĩa tượng trưng để góp vào thơ Việt Nam không chỉ “những câu thơ hay vào bực nhất” mà còn là sự ra đời của một nhóm thơ (Trường thơ Loạn), một trào lưu thơ (tượng trưng) để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử văn học dân tộc.      “Trong cõi thơ Bích Khê, người ta nhận ra thi nhân là người có ý thức cách tân triệt để về kỹ thuật ngôn từ, câu chữ” [15]. Trong các kỹ thuật ngôn từ, so sánh tu từ là một phương diện nổi bật, thể hiện đậm nét ý thức đổi mới thơ, đồng thời ghi rõ dấu ấn tư duy tượng trưng của thơ Bích Khê. Có thể nói, Bích Khê không chỉ là nhà thơ của thanh bằng, của nhạc tính mà còn của những so sánh tu từ mới lạ, độc đáo và cũng rất “dị thường” như chính thế giới thi ca của ông.

_____________________

          (1) Hoài Thanh – Hoài Chân (2006), Thi nhân Việt Nam, Nxb Thanh Hoá.

            (2), (3), (4) Đặng Thị Ngọc Phượng (2006), “Bích Khê nhà thơ của đỉnh cao nghệ thuật ngôn từ”, Bích Khê một trăm năm (1916-2016) tuyển chọn, Nxb Hội Nhà văn.

            (5) Tinh huyết và Tinh hoa in trong Bích Khê một trăm năm (1916-2016) tuyển chọn, Sđd.

            (6) Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Nguyễn Thái Hoà (1993), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.

            (7), (8) Đinh Thị Thanh Đức (2020), “Biện pháp so sánh tu từ trong thơ Hàn Mặc Tử”, Tạp chí Khoa học – Trường Đại học Trà Vinh, 49.

            (9), (10), (11) Lê Hoài Nam (2006), “Đóng góp của Bích Khê vào nền thơ ca hiện đại Việt Nam”, Bích Khê một trăm năm (1916-2016) tuyển chọn, Sđd.

            (11), (12) Xin xem Trịnh Sâm (2006), “Về nghệ thuật ngôn từ trong thơ Bích Khê”, Bích Khê một trăm năm (1916-2016) tuyển chọn, Sđd.

            (13) Mai Bá Ấn (2022), “Dấu ấn địa văn hoá của các nhà Thơ mới”, Văn nghệ, (15).

            (14) Mai Bá Ấn (2008), “Bích Khê, mắt tượng trưng”, Bích Khê một trăm năm (1916-2016) tuyển chọn, Sđd, tr.471-489.

            (15) Bích Thu (2006), “Đi vào cõi thơ Bích Khê”, Bích Khê một trăm năm (1916-2016) tuyển chọn, Sđd, tr.587-604.

NGUỒN: TẠP CHÍ SÔNG TRÀ SỐ 123-124, THÁNG 6=2023



Tin tức khác

· ĐẾN VỚI “TINH HUYẾT” ĐẾN VỚI MỘT THẾ GIỚI THƠ MƠ ẢO
· VÀNG RƠI, VÀNG RƠI, THU MÊNH MÔNG! - Tiểu luận PHẠM HIỀN MÂY
· THƠ CỦA TÂM NHIÊN VIẾT VỀ QUẢNG NGÃI VÀ BÍCH KHÊ
· “TINH HUYẾT – TINH HOA” VÀ ĐIỆU HỒN BÍCH KHÊ
· MẤY CẢM XÚC VỀ BÍCH KHÊ VÀ THƠ BÍCH KHÊ -Tiểu luận TRẦN HOÀI HÀ
· THĂM LẠI VỊNH TIÊN SÀ - QUÊ HƯƠNG THI SĨ BÍCH KHÊ -Tiểu luận NGUYỄN TRUNG HIẾU
· NGÔ VĂN PHÚ HỎI CHUYỆN TẾ HANH VỀ BÍCH KHÊ
· BÍCH KHÊ - HỒN AI SAY BÓNG NGUYỆT
· ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG THƠ BÍCH KHÊ
· ĐẾN VỚI BÀI THƠ “CÙNG MỘT CÔ ĐÀO HÁT BỘ” - HÀ HUY HOÀNG
· SO SÁNH TU TỪ VỚI SỰ THỂ HIỆN TƯ DUY TƯỢNG TRƯNG TRONG THƠ BÍCH KHÊ
· BÍCH KHÊ MẮT TƯỢNG TRƯNG -Tiểu luận MAI BÁ ẤN
· ĐÊM THƠ NHẠC KỶ NIỆM 70 NĂM NGÀY MẤT CỦA NHÀ THƠ BÍCH KHÊ (23/1/1946 - 23/1/2016)
· TRƯỜNG THƠ LOẠN QUY NHƠN - TỪ GÓC NHÌN ĐỊA VĂN HÓA
· LỄ ĐÓN NHẬN BẰNG DI TÍCH CẤP TỈNH KHU LƯU NIỆM NHÀ THƠ BÍCH KHÊ
· TỔ CHỨC LỄ ĐÓN NHẬN BẢNG XẾP HẠNG DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA CẤP TỈNH ĐỐI VỚI NHÀ LƯU NIỆM BÍCH KHÊ
· MỘNG HOÀNG HOA
· BÍCH KHÊ VÀ NHỮNG NGHI ÁN TẠI QUÊ HƯƠNG NÚI ẤN SÔNG TRÀ
· ĐÔI NÉT VỀ CUỘC ĐỜI BÍCH KHÊ
· HOÀNG DIỆP TÁI HIỆN VỤ KIỆN THƠ HÀN MẶC TỬ

Tin tức mới
♦ THÁI ÚY TÔ HIẾN THÀNH - NHỮNG BÀI HỌC KHÔNG BAO GIỜ CŨ  (24/12/2025)
♦ THƠ BÙI THÚY - VỜ NGÂY THƠ TRƯỚC THĂM THẲM TRĂNG VÀNG (24/12/2025)
♦ 'KIẾN TRÚC SƯ' ĐẦU TIÊN CỦA ĐƯỜNG HỒ CHÍ MINH LÀ AI? (24/12/2025)
♦ LÂM THỊ MỸ DẠ VÀ NHỮNG BÀI THƠ ĐI CÙNG NĂM THÁNG (24/12/2025)
♦ TRUYỆN NGẮN HỒ LOAN - THỦ PHÁP TRỘN GIỌNG GIỮA NGƯỜI KỂ VÀ NHÂN VẬT - Tiểu luận MAI BÁ ẤN ()
Bạn đọc
Quảng cáo
 

Bích Khê tên thật là Lê Quang Lương

Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)

Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.

Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.

Tong truy cap Tổng truy cập: 1835961
Trong thang Trong tháng: 172474
Trong tuan Trong tuần: 81
Trong ngay Trong ngày: 73028
Truc tuyen Trực tuyến: 5

...

...

Designed by VietNetNam