TỲ BÀ
.......
Tôi qua tim nàng vay du dương
Tôi mang lên lầu lên cung Thương
Tôi không bao giờ thôi yêu nàng
Tình tang tôi nghe như tình lang
Yêu nàng bao nhiêu trong lòng tôi
Yêu nàng bao nhiêu trên đôi môi
Đâu tìm Đào Nguyên cho xa xôi
Đào Nguyên trong lòng nàng đây thôi
Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu
Trăng nay không nàng như trăng thiu
Đêm nay không nàng như đêm hiu
Buồn lưu cây đào tìm hơi xuân
Buồn sang cây tùng thăm đông quân
Ô! Hay buồn vương cây ngô đồng
Vàng rơi! vàng rơi: Thu mênh mông.
Tư liệu
THĂM LẠI VỊNH TIÊN SÀ - QUÊ HƯƠNG THI SĨ BÍCH KHÊ -Tiểu luận NGUYỄN TRUNG HIẾU
THĂM LẠI VỊNH TIÊN SÀ - QUÊ HƯƠNG THI SĨ BÍCH KHÊ -Tiểu luận NGUYỄN TRUNG HIẾU
NGUYÊN TRUNG HIẾU
Một vùng đất ở phía đông, cách quốc lộ một đúng mười cây số, gần giáp cuối nguồn, giao điểm giữa hai con sông xanh êm, tĩnh lặng - sông Vệ, sông Trà.
Cứ đúng mùa thu, tất cả ghe thuyền lớn nhỏ, phần nhiều sà, rớ dọc các sông rạch đều trở về cắm bến, nơi cửa vịnh này, để tránh gió bão, cũng là mùa vui nhất, bận rộn nhất của người làm nghề trên sông nước. Họ trao đổi kinh nghiệm làm ăn, bán buôn lời lỗ và chuẩn bị dầm chèo, buồm, lưới... cho mùa sau, khi những cây xoan đầu làng vừa chớm lá.
Nét quyến rũ của thiên nhiên êm đềm, thơ mộng và con người chất phác, đôn hậu, khiến người Hoa đến kiếm sống cũng cảm tình, thừa nhận đây như cảnh tiên, đã chọn làm nơi ăn đời, ở kiếp từ cuối thế kỷ 17.
Vịnh Tiên Sà, chính cửa vịnh ấy che được gió bão cho những sà, rớ - một phương tiện đánh bắt các loại hải sản - thuở rất xa xưa, và sau đó, theo thổ âm địa phương, chữ Sà được gọi nhẹ đi là Xà. Khi phố xá đã hình thành tương đối, người ta gọi phố Thu. Lê Cao Sinh, cháu gọi Bích Khê bằng chú ruột, yêu Thái Mậu Khanh, cô gái Hoa khá đẹp, sau trục trặc sao đó, đã làm bài thơ, trong có câu: “Phố Thu không ấm mãi duyên lành..”. Rồi phố Thu dần thành Thu Phố. Về sau, người ta mới lấy chữ Xà ghép với chữ Thu, thành Thu Xà, một địa danh quen thuộc của Quảng Ngãi, với ý nghĩa ấy, bắt đầu từ đó.
Lần ngược thời gian, tôi được hiểu kỹ hơn vùng đất này, có khá nhiều sự tích, như huyền thoại của những người đi mở cõi từ lúc hồng hoang đến những cuộc chiến tranh vệ quốc. Nhưng ở đây, tôi chỉ xin nói về một trong nhiều dòng tộc sống lâu nhất ở vùng này, đã được nhiều người biết đến, còn giữ khá đậm nét đặc trưng truyền thống văn hóa Việt Nam, đó là dòng tộc họ Lê.
Ông tổ dòng họ Lê đến sống ở Quảng Nam rất lâu, sau mới lần vào Quảng Ngãi và chọn vịnh Tiên Sà - nay là Thu Xà làm điểm dừng, lập nghiệp, trước cả khi người Hoa đến và ở, họ thân quý nhau như cùng huyết thống.
Ngôi nhà thờ dòng họ Lê, nơi sinh nhà thơ kỳ tài bạc mệnh Bích Khê, được kiến trúc kiểu đền đài, thâm nghiêm, có đến bốn mươi tám cây cột gỗ; tường, cửa cũng đều bằng gỗ đen mun, được chạm khắc khá công phu, tinh tế. Rất tiếc, quân ngụy trước lúc cùng đường, đã đánh sập hoàn toàn ngôi nhà ấy, cách ngày giải phóng miền Nam, chưa đầy hai tháng?
Theo những người lớn tuổi, chùa Ông, tuy được dựng sau, vẫn có nét hao hao nhà thờ họ Lê - thâm nghiêm, tĩnh lặng. Dân làng kể lại chùa này rất thiêng, đã có người hộc máu chết ngay trước cổng chùa vì ăn nói xấc xược sao đó với thánh nhân! Thời Tây còn đô hộ, có mấy thằng Tây lấy vợ Việt, các bà vợ không bao giờ dám léo tới chùa vì sợ đã mang tiếng lấy Tây là đồ đĩ, là thứ xấu xa, ô uế. Chỉ những thằng chồng Tây thấy là lạ, thỉnh thoảng cũng có vào chùa, nhưng cúi lạy đàng hoàng vì Ông đã ứng trăm điều đều trăm đúng! Chuyện kể: Vợ của hai quan tuần vũ và án sát, đánh tứ sắc bị nhầm lẫn sao đó một đồng bạc Đông Dương (giá trị tương đương 15 giạ lúa bấy giờ). Hai bà cãi nhau và đã thể độc: Ai gian thì hộc máu. Rồi cả hai cùng sắm nhang đèn, trái cây và ăn bận tử tế kéo vào chùa, nhưng lạ sao, không bà nào chịu vào trong, cứ lởn vởn trước cửa, lặng người nhìn sững hai câu khắc trên liễn gỗ sắc lẹm, như thanh gươm chờ phập xuống:
“Xảo trá gian điêu đáo miếu khuynh thành hà ích;
Công bình chính trục nhập môn bất bái vô phòng!”
(Ý là những kẻ xảo trá điêu ngoa đến nơi miếu mạo tỏ ra nghiêng mình thành kính, chẳng ích gì. Người công bằng ngay thẳng vào đền chùa không cần lạy cũng chẳng cơn chi). Khiếp quá, hai bà lùi lùi ra về, tự thu xếp nhau. Cái tục xin xăm Ông và đi chùa vào những ngày Rằm, mồng Một hàng tháng vẫn còn khá nhiều người tin. Chùa này, đã được Bộ Văn hóa - Thông tin công nhận di tích văn hóa - lịch sử.
Những năm chống Mỹ, cứu nước, nhiều cán bộ ta hoạt động ngay trong lòng địch, chính vì được các vị sư và nhân dân chở che, đùm bọc, nhiều lần, lính địch truy bắt, đòi khám chùa, nhưng cái thiêng của Ông đã làm chúng cũng thấy ớn lạnh, tìm cách lãng tránh.
Nhà thơ Bích Khê thường ra ngắm bến Vực Hồng những lúc chiều xuống, trăng lên nhìn nước mây Cửa Đại và cũng hay lên Hội quán chùa Ông, mới gặp “Những nàng lai khách vẫn buồn mơ/Đường lên Hội quán sương khuya xuống”.
Tiết thu, đẹp trời, lần nữa, tôi lại cùng anh Lê Cao Lập và chị Lê Phương Mai, cháu gọi Bích Khê bằng chú ruột về thăm lại vịnh Tiên Sà, quê hương nhà thơ và viếng mộ ông. Khác những lần trước, khu vườn nhà thơ, cỏ cây phủ lấp, giờ đang hình thành một ngôi nhà mới, đúng trên cái nền ngày xưa ấy. Mẫu nhà, do một kiến trúc sư nổi tiếng ở Sài Gòn, Huỳnh Thống Nhất, thiết kế hữu nghị - theo anh Lê Cao Lập, gần giống hình hài ngôi nhà cũ, chỉ khác là không có cột gỗ và vách cửa không hoàn toàn được bằng gỗ như trước. Nhà đang làm dở, khoảng cuối năm xong, mà đã đi đứt hai trăm triệu đồng, chưa kể nội thất. Toàn bộ dòng tộc họ Lê cứ sống tàm tạm qua ngày, không ai được đứng ở hạng giàu có. Anh Lê Cao Lập cho biết: Cứ mỗi gia đình nội ngoại, ít góp hai muơi nghìn đồng, còn lại tùy khả năng mỗi người, vậy mà nhiều người chưa kịp tin cho hay đã trách này nọ đấy. Có điều lạ là anh Lê Cao Lập, đã ở tuổi sáu mươi bốn, nhưng biết và nhớ rất kỹ tên, tuổi, nghề nghiệp từng người của dòng họ trong chín đời, mà các nhánh họ ở cách nhau những ba bốn chục cây số chứ ít ỏi gì? Đặc biệt là mồ mả, hàng năm, anh Lê Cao Lập đều đi dẫy và thắp hương không sót cái nào! Anh Lập nói với cả lòng thành kính và hãnh diện: Chín đời mồ mà vẫn khang trang.
Chính từ ngôi nhà này, dòng tộc này giúp tôi hiểu thêm truyền thống yêu nước và cách mạng của thần dân Thu Xà, đặc biệt dòng họ Lê và gốc gác của nhà thơ cùng những thế hệ chưa xa lắm: Ông nội Bích Khê là cụ Lê Trọng Khanh, đỗ cử nhân năm 1868, thời Tự Đức, làm đến chức Viên ngoại lang rồi cáo quan vì thấy triều đình nhà Nguyễn ngày càng bộc lộ sự hèn nhát, nhu nhược với thực dân Pháp. Biết cụ Lê Trọng Khanh tiết tháo, có tài. Cần chánh điện đệ nhất triều đình Nguyễn Thân, có quyền uy lớn “Tiền đả hôn quân, hậu trảm gian thần”, đã ép cụ ra cộng tác với hắn, chống phong trào Cần Vương. Không còn đường nào khác, cụ Lê Trọng Khanh tuẫn tiết!
Nhà nho uyên thâm Lê Quang Dục, thân sinh Bích Khê, một trong những người tích cực với các phong trào Đông Kinh nghĩa thục, Duy Tân và chống sưu thuế. Cụ Lê Trọng Kha, một trong những chiến sĩ cộng sản đầu tiên ở Quảng Ngãi đã hy sinh trong cuộc đấu tranh lưu huyết cùng bảy chiến sĩ cộng sản ở ngục Kon Tum, ngày 12.02.1931, trong đó có cụ Đặng Thái Thuyến, con cụ Ngư Hải Đặng Thái Thân, nhà cách mạng tiền bối ở Nghi Lộc, Nghệ An, cụ cử nhân Trương Quang Trọng, Sơn Tịnh, Quảng Ngãi...
Sự hy sinh oanh liệt của các chiến sĩ cộng sản đã gây xúc động lớn không những với các dân tộc Tây Nguyên và miền Trung mà cả sĩ quan, binh sĩ địch hai nơi ấy cùng nể phục. Có không ít thơ, ca, hò, vè khâm ngợi sự hy sinh đó. Nhiều người, nay đã trên bảy mươi năm, vẫn nhớ như in:
Tám nấm một gò cỏ phủ quanh
Chết vì chính nghīa chẳng vì danh
Tùng rêu khó phủ lòng cương quyết
Nắm đất khôn nguôi dạ nhiệt thành
Bè bạn trông qua, gan ruột tím
Địch thù nhớ lại, mặt mày xanh
Trước sau cũng thác thà như thế
Mới gọi là người biết tử sinh!
Cuối thế kỷ 17, thị trấn Thu Xà đã hình thành và được coi là thương cảng lớn và sầm uất nhất của Quảng Ngãi. Tàu thuyền các nơi: Thượng Hải, Quảng Châu, Ma Cao, Phúc Kiến, Hồng Kông, Indonesia, Thái Lan... vào ra bán buôn tấp nập cho đến gần nửa đầu thế kỷ 20. Cuộc sống nhộn nhịp và thay đổi một cách nhanh chóng, nhà ngói mọc lên, phố chợ dập dìu. Con trai, con gái cũng theo đó đua đòi chưng diện, cố nhiên không đến hở hang, òng ẹo móng tay dài, mặt mày, tóc môi được sơn phết vàng, xanh, tím, đỏ... như giờ.
Riêng cái khoản hút thuốc phiện và đánh bạc, nhất là những người lớn tuổi thì coi như... tuyệt đại. Ấy, nhưng chỉ có hai gia đình hoàn toàn đối kỵ, chuyên lo ruộng đồng và đèn sách. Đó là gia đình chú Bốn Luân. Chú Bốn có ba người con, một trai, hai gái đều học rất giỏi. Anh Trần Dũ Phiên, dịch được cả sách tiếng Anh và tiếng Pháp. Hai người em gái đẹp đến nước nhiều chàng trai phải ngồi trong bụi rậm chờ các cô đi học về để xem. Người ta gọi hai chị em Trần Thị Giàu và Trần Thị Sang là song Kiều - tức hai nàng Kiều. Các cô Kiều này rất ham đọc sách, thích văn chương, đặc biệt mê thơ Bích Khê, muốn được làm quen, dù hai gia đình cùng một lối đi, cách nhau chừng trăm thước. Không biết thi sĩ Bích Khê có nhận biết tín hiệu để lần ra “tần số”, vẫn cửa đóng then cài, lặng im đèn sách?
Người gần gũi Bích Khê, hiểu Bích Khê khá kỹ đang ở tuổi Tân Hợi, chín mươi hai, vẫn khỏe và rất minh mẫn, đó là cụ Dao Thị Hữu. Dân làng quen gọi Bảy Hường, theo thứ và tên của chồng là ông Lê Quang Hường, anh ruột Bích Khê. Bích Khê là con thứ chín nên bà Bảy thường gọi: chú Chín. Ông Lê Quang Hường, bút hiệu: Tĩnh Nam, có tập thơ “Tĩnh Nam thi tập”, chưa in. Ông mất trước Cách mạng tháng Tám một năm, ở tuổi ba mươi sáu, cùng bệnh với Bích Khê. Cái chết của người anh đã để lại nỗi buồn day dứt, phần thương anh, nửa nghĩ phận mình, nhưng rồi số đã định, đúng một nǎm sau Bích Khê:
Từ giã anh em trước gió xuân!
để rồi sau đó, mãi mãi chỉ còn thấy:
Trên mồ con qua đứng im hơi.
Bà cụ Bảy Hường khi về làm dâu nhà Bích Khê đã giỏi nghề làm bánh kẹo, đến nay đã trên sáu mươi năm, bà vẫn sống bằng nghề ấy. Bánh kẹo của bà Bảy ngon nổi tiếng Quảng Ngãi. Việt kiều từ các nước về thăm quê thế nào cũng phải mua bằng được một vài loại để làm quà. Lạ là căn nhà cấp bốn của bà nằm sụp trong sâu, không biển hiệu, vậy mà không lúc nào vắng người đến đặt hàng. Mặc dù tuổi cao, nhưng cứ xem đôi tay của bà in bánh, gói bánh cứ như các cô gái: nhanh, mềm mại, chính xác, đẹp.
Sau khi chồng và em chồng qua đời, bà Bảy vẫn ở vậy, trong ngôi nhà ấy, nuôi con ăn học đàng hoàng cho đến giờ. Nói về bà Bảy, dân làng ai cũng quý một con người phúc hậu lại về làm dâu trong một gia đình có học tử tế.
Những năm đầu cách mạng rồi tiếp kháng chiến chống thực dân Pháp, đời sống rất kham khổ, nhưng bà Bảy vẫn cần mẫn lao động nuôi con, nuôi anh em cán bộ, bộ đội, người ít một đôi tháng, người nhiều vài năm, như anh Phạm Phát, sau là trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Quảng Nam - Đà Nẵng, anh Ngô Anh Giang, bộ đội Nam tiến, sau là đạo diễn phim của hãng phim Việt Nam... Hồi đó cơ quan, quân đội đều ở nhà dân. Những gia đình có anh em đến ở rất phấn khởi vì được địa phương chọn là những gia đình tốt nên khách và chủ đều quý nhau, tin tưởng nhau.
Nói về Bích Khê, bà cụ Bảy cứ xuýt xoa, như trách giận: “Từ lúc về làm dâu, tôi thấy chú Chín nó suốt ngày ngồi trong phòng làm thơ, đọc sách, cả khi bệnh hoạn cho đến lúc chết”.
Qua bà cụ Bảy và những cán bộ lớn tuổi, có uy tín ở địa phương, tôi còn duợc biết “thê đội” tiếp nối của dòng họ này, có đến tiểu đoàn thừa trên ba trăm người, đang ở khắp mọi miền đất nước, đều là người của “đàng mình”, như các ông Lê Trọng Thủy, du kích Ba Tơ, sau là Viện trưởng Viện Kiểm sát quân chủng Phòng không không quân; bà Lê Thị Ngọc Sương, chị ruột nhà thơ - một cán bộ cách mạng từng vào tù ra tội, là vợ của nhà báo nổi tiếng Lạc Nhân, thư ký tòa soạn báo Tiếng Dân, thời cụ Huỳnh Thúc Kháng; Lê Vǎn Chắc, đại sứ Việt Nam tại Hung-ga-ri; Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tổng công ty Dệt may Việt Nam; đại tá Lê Trọng Cách, con anh hùng liệt sĩ Lê Trọng Kha; Giáo sư Hiệu trưòng Trường Đại học Sư phạm Quy Nhơn Lê Hoài Nam; nhà khoa hoc Hoàng Trọng Phu, Viện trưởng Viện khoa học Quân sự, Quân đội Nhân dân Việt Nam...
Thu Xà nay thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, được đại diện Chính phủ miền Nam Trung bộ, ông Phạm Văn Đồng thường về thăm, đã đánh giá rất cao các mặt hoạt động của xã này và khen tặng “Xã kiểu mẫu đầu tiên của Liên khu V”. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là vùng tranh chấp hết sức ác liệt, nhưng không hề có ai là ác ôn phản động. Một số không nhiều thanh niên bị bắt lính, thực chất là lính ma, lính kiểng, ngay có người trong chính quyền xã của ngụy, cũng là cơ sở của ta. Cho nên suốt cả cuộc kháng chiến, Nghĩa Hòa, mặc dù sông nước bao quanh, bót đồn địch giăng đầy, đội công tác vẫn đêm đêm về với dân. Không ít lần tôi cùng các chiến sĩ của ta trụ ở thị trấn Thu Xà ngay giữa ban ngày, mặc dù vùng thuộc chính quyền địch kiểm soát. Nhờ vậy mà biết khá rõ từng động tĩnh của địch và tình hình dân chúng ở đó.
Khi trao đổi về nhà thơ Bích Khê cùng những người quen biết nhà thơ trước đây, cũng như các bạn sinh viên, thầy giáo Anh văn Nguyễn Tương đột ngột hỏi tôi: “Ở Quảng Ngãi, anh đã biết câu này chưa?”. Tôi đang lóng ngóng, thầy giáo Tương đọc luôn: “Giàu: ghét, nghèo: khinh, thông minh: khổ!”. Bích Khê bị ở vế thứ ba nên phải chịu vậy, không có gì lạ cả!
Mấy anh em nói chuyện vui vẻ, thoải mái, có lúc sôi nổi gay gắt chung quanh nhà thơ này. Đại thể có người xướng lên “Bích Khê là Tờ-rốt-kít”, như mọi người đã rõ. Người ấy tốt, nhưng văn hóa của ông mới biết đọc, biết viết thì làm thế nào ổng hiểu được thơ phú, hiểu được Bích Khê? Đại thần Nguyễn Thân, có quyền: “tiền trảm, hậu tấu”, đã bức tử nhà nho Lê Trọng Khanh, dòng họ Bích Khê, sau đó tâu với triều đình nhưng đã bị triều đình quở là “Nguyễn Thân non, vụng không biết cảm hóa, thuyết phục người hiền tài”. Ông Bùi Định cũng chém người, người của ta, chém sinh mệnh chính trị một nhà thơ tài hoa, có nhân cách lớn mà đâu có báo với ai?
Vấn đề này, gia đình, bạn bè thân hữu nhà thơ rất bất bình, đã nhiều lần lên tiếng phản đối thái độ võ đoán, tùy tiện của người đã viết trên một tờ báo và khẩn thiết đề nghị được gặp chính quyền tỉnh Quảng Ngãi để đối chất với người nào gán tội cho nhà thơ, nhưng đến nay, đã rất nhiều năm vẫn... im lặng - sự im lặng gần như vô cảm, nếu không nói có phần ác! Nhiều ý kiến cho rằng, những người lãnh đạo có trách nhiệm cao, có tâm đức lớn, nhạy cảm và tôn trọng lẽ công bằng thì việc minh giải cho nhà thơ Bích Khê và dòng tộc của ông, cũng là nhằm đem lại vinh dự cho nhân dân Quảng Ngãi, không ngoài tầm sức! Không nên để sự ngộ nhận quyền lực và sự nô lệ quyền lực của một số rất ít người đeo bám dai dẳng, dần tạo nên không khí nặng nề quá mức, dẫn đến nguy cơ có thể trở thành nỗi thống khổ chung, ngày càng làm nhiều người phải chịu thân bại danh liệt!
Căn cứ tình cảm, trách nhiệm của những cán bộ có uy tín gần gũi Bích Khê và gia đình ông, nhận xét, đánh giá về ông, về dòng tộc của ông, cùng những tư liệu trung thực có giá tri về truyền thống yêu nước và cách mạng rất xứng đáng được Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý cho dòng tộc thi sĩ và chính thi sĩ tài hoa này.
Mặt trời đã gác núi Ông, chia tay bà con, những người đã nhường từng mẩu khoai, hạt muối, căn hầm bí mật, giành phần nguy hiểm về mình để chúng tôi được yên lòng tiếp tục thực hiện những gì họ hằng mong ước.
Trên đường về, một lần nữa, chúng tôi viếng chùa Ông với lòng thành kính, bởi là nơi luôn tâm nguyện cho con người ăn ở với nhau luôn được tử tế và ngày một tốt hơn.
Sinh ngày 24.3.1916 (tức ngày 21.2. năm Bính Thìn)
Tại quê ngoại ở xã Phước Lộc, nay là xã Tịnh Sơn, huyện Sơn Tịnh.
Ông lớn lên và sống chủ yếu tại quê nội ở thị trấn Thu Xà, thuộc xã Nghĩa Hòa, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi. Đó là một thị trấn cổ, có nhiều Hoa kiều đến sinh cơ lập nghiệp. Nhờ giao thông thuận tiện, có sông lớn, gần cửa biển, nên Thu Xà đã từng có thời kỳ rất sầm uất, buôn bán thịnh vượng, nhưng đã dần sa sút từ khi chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra.